Các khái niệm về lực kháng từ Lực_kháng_từ

Lực kháng từ thực tế là một đại lượng ngoại của mỗi vật từ và vật liệu từ. Thực tế, lực kháng từ chỉ tồn tại ở các vật liệu có trật tự từ (sắt từ, feri từ,...). Thông thường, lực kháng từ thường được xác định từ đường cong từ trễ của vật từ. Nhờ khái niệm lực kháng từ, người ta phân loại được hai loại vật liệu sắt từvật liệu sắt từ cứng (có lực kháng từ lớn) và vật liệu sắt từ mềm (có lực kháng từ nhỏ). Do sự liên quan giữa từ trường ( H {\displaystyle H} ), cảm ứng từ ( B {\displaystyle B} ), và từ độ M {\displaystyle M} bởi công thức:

B = μ 0 × ( M + H ) {\displaystyle B=\mu _{0}\times (M+H)}

Do đó, sẽ xuất hiện hai loại giá trị lực kháng từ:

  • Lực kháng từ liên quan đến từ độ ( H c M {\displaystyle H_{c}^{M}} )
Là giá trị của lực kháng từ, cho phép triệt tiêu độ từ hóa của mẫu. Giá trị này mang tính chất chung, không phụ thuộc vào hình dạng vật từ, và trong kỹ thuật thường được ký hiệu là H c M {\displaystyle H_{c}^{M}} . Thông thường, nếu chỉ nói đến khái niệm lực kháng từ thường để chỉ khái niệm này.
  • Lực kháng từ liên quan đến cảm ứng từ ( H c B {\displaystyle H_{c}^{B}} )
Là giá trị của lực kháng từ cho phép triệt tiêu cảm ứng từ của vật từ. Giá trị này mang tính chất kỹ thuật, phụ thuộc vào hình dạng vật từ (do được bổ sung yếu tố dị hướng hình dạng của vật từ khi đo), và thường được ký hiệu là H c B {\displaystyle H_{c}^{B}} .

Đối với các vật liệu có lực kháng từ nhỏ, sự sai khác giữa hai đại lượng này rất nhỏ, và đôi khi thường bị nhầm lẫn với nhau. Sự sai khác này chỉ trở nên đáng kể đối với các vật liệu từ cứng.